Những yếu tố nguy cơ gây tiền ĐTĐ đã được biết đến nhiều như béo phì, THA, tuổi trên 45, tiền sử gia đình có ĐTĐ, ĐTĐ thai kỳ hay đẻ con trên 4kg. Khi có các yếu tố nguy cơ, chúng ta cần nghĩ đến tiền ĐTĐ.
Việc phát hiện tiền ĐTĐ sẽ tiến hành trên các đối tượng có nguy cơ, xác định qua các xét nghiệm thăm dò đường huyết.
Tiền ĐTĐ là một tình trạng bệnh lý có thể điều trị được. Nghiên cứu về phòng chống bệnh ĐTĐ cho thấy những người mắc tiền ĐTĐ có thể ngăn ngừa việc tiến triển thành ĐTĐ týp 2 bằng cách điều chỉnh chế độ dinh dưỡng và tăng cường hoạt động thể lực.
Người dân cần được trang bị kiến thức về ĐTĐ cũng như tiền ĐTĐ, hiểu biết về các yếu tố nguy cơ để phát hiện sớm cũng như việc có lối sống lành mạnh.
Những người bị tiền ĐTĐ cũng cần được hiểu biết thêm về các vấn đề xảy ra đối với họ: chế độ luyện tập; chế độ ăn uống; chế độ dùng thuốc; khi bị ốm; khi đi du lịch; nguy cơ dễ bị các bệnh khác như lây nhiễm cúm/viêm phổi; thay đổi tâm lý (cáu giận hoặc trầm cảm).
Ở Mỹ, Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ đã đưa ra nhiều tài liệu để người dân tham khảo, biết được nguy cơ mắc tiền ĐTĐ và các biện pháp phòng tránh ĐTĐ nếu bị tiền ĐTĐ. Những người mắc tiền ĐTĐ có thể tham khảo được rất nhiều lời khuyên hữu ích về chế độ ăn uống, chế độ tập luyện dành cho người ĐTĐ ở đây. Đường dẫn ở trang này là nền tảng quan trọng để điều trị thành công tiền ĐTĐ.
Khái niệm tiền ĐTĐ đã được Cơ quan về dịch vụ Sức khỏe và con người Hoa Kỳ (HHS) và Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ đưa ra vào tháng 3/2002 để nâng cao nhận thức của cộng đồng về căn bệnh ngày càng lan rộng này. Theo HHS, gần 41 triệu người Mỹ mắc tiền ĐTĐ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hầu hết những người có đường huyết nằm trong ngưỡng tiền ĐTĐ đều tiến triển lên ĐTĐ týp 2 trong vòng 10 năm; nghiên cứu cũng cho thấy, 50% người mắc tiền ĐTĐ có nguy cơ bị bệnh tim mạch hoặc đột quỵ. Tiền ĐTĐ có thể kiểm soát được và trong nhiều trường hợp có thể đẩy lùi được thông qua việc điều chỉnh lối sống. Nghiên cứu gần đây cho thấy một số bộ phận cơ thể đã bị tổn thương, đặc biệt là tim và hệ tuần hoàn trong thời gian bị tiền ĐTĐ
Ở Việt Nam, đứng trước bệnh dịch ĐTĐ của thế kỷ, Chương trình phòng chống ĐTĐ Quốc gia cũng tiến hành nhằm nâng cao ý thức cộng đồng về ĐTĐ, nâng cao kỹ năng tư vấn dinh dưỡng, luyện tập trong phòng chống ĐTĐ và tiền ĐTĐ của nhân viên y tế.
Chẩn đoán
Hiện nay có 2 cách thử tiêu chuẩn để phát hiện, chẩn đoán tiền ĐTĐ. Với test thử huyết tương tĩnh mạch đường huyết đói (FPG), người đó nhịn đói qua đêm và lấy máu tĩnh mạch vào sáng hôm sau, trước khi ăn. Cho đến thời điểm hiện tại, đường huyết đói dưới 110 mg/ dL (6,1 mmol/L) được coi là bình thường và đường huyết đói nằm trong khoảng từ 110mg/dL (6,1 mmol/L) đến 125mg/dL (6,9 mmol/L) được coi là rối loạn đường huyết đói (IFG) hay tiền ĐTĐ. Cuối năm 2003, Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ khuyến cáo ngưỡng đường huyết của người bình thường giảm xuống còn 100mg/dL (5,6 mmol/L), do đó bây giờ đường huyết trong khoảng từ 100mg/dL đến 125mg/dL (hay từ 5,6 đến 6,9 mmol/L) được coi là tiền ĐTĐ. Người nào có đường huyết đói trên 125mg/dL (6,9mmol/L) được coi là ĐTĐ (cần phải làm lại xét nghiệm lần nữa vào một ngày khác để xác định chẩn đoán ĐTĐ).
Với xét nghiệm rối loạn dung nạp glucose (OGTT), người ta làm xét nghiệm đường huyết đói buổi sáng sau một đêm không ăn và làm xét nghiệm lần nữa sau 2 giờ uống một dung dịch chứa đường đặc biệt. Ở người bình thường, đường huyết 2 giờ sau khi uống đường thường dưới 140mg/dL (7,8 mmol/L); nếu đường huyết nằm trong khoảng từ 140 đến 199 mg/dL (hay từ 7,8 đến 11,1 mmol/L) thì được coi là rối loạn dung nạp glucose hay tiền ĐTĐ. Đường huyết 2 giờ sau khi uống đường bằng hoặc cao hơn 200mg/dL (11,1 mmol/L) được coi là ĐTĐ (cũng tương tự như trên, cần làm lại xét nghiệm lần nữa vào một ngày khác để xác định chẩn đoán ĐTĐ).
Những ai có nguy cơ bị tiền ĐTĐ?
Hội đồng các chuyên gia của HHS và ADA khuyên nhân viên y tế nên sàng lọc tất cả những người béo phì từ 45 tuổi trở lên (với chỉ số khối cơ thể BMI lớn hơn hoặc bằng 25). Những người béo phì tuổi dưới 45 cũng cần được sàng lọc nếu họ có một trong những yếu tố nguy cơ sau: cao huyết áp, tiền sử gia đình có người bị ĐTĐ, nồng độ mỡ trong máu cholesterol tốt (HDL – High-Density Lipoprotein) thấp và triglyceride cao, tiền bị ĐTĐ thai kỳ hoặc đẻ con to trên 4kg, hoặc thuộc chủng tộc có nguy cơ bị ĐTĐ týp 2 cao (như người Mỹ gốc Phi, người Mỹ bản xứ, người Mỹ gốc Á/dân thuộc các đảo ở Thái Bình Dương và người Mỹ gốc Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha, Latinh). Nếu một người được xét nghiệm sàng lọc tiền ĐTĐ và kết quả đường huyết nằm trong giới hạn bình thường thì ADA khuyên nên làm xét nghiệm lại 3 năm một lần. Nếu một người được chẩn đoán tiền ĐTĐ thì nên làm xét nghiệm sàng lọc chẩn đoán ĐTĐ týp 2 cứ 1 đến 2 năm một lần.
Trẻ em và thanh niên mới trưởng thành cũng có nguy cơ mắc tiền ĐTĐ. Hiện nay chỉ có một bộ phận nhỏ các em hiểu biết về cách phòng tránh hoặc ngăn ngừa bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ týp 2 ở trẻ em. Do đó vào thời điểm hiện tại những tổ chức lớn về y tế chưa kêu gọi chiến dịch sàng lọc đại trà tiền ĐTĐ ở những đối tượng trẻ tuổi. Tuy vậy năm 2000, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến cáo tầm soát ĐTĐ cho trẻ em béo phì có hai hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ đề cập ở trên.