Ngày cập nhật: 02/05/2024
Sáng 9/5, Hội đồng khoa học Sở Y tế TPHCM đã có kết luận về trường hợp tử vong của sản phụ Ngô Thị Hồng Thu (SN 1982 – ngụ ấp Nhị Tân 2, xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn) xảy ra vào tối 29/4, trong lúc mổ lấy con, sản phụ bị thuyên tắc ối và trở nên tím tái.
PGS.TS Vũ Thị Nhung, Chủ tịch Hội Phụ sản TPHCM, cho biết :Tỉ lệ thuyên tắc ối ước tính 1/30.000 cho đến 1/8.000 sản phụ trong thai kỳ và không dự phòng được, có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Chính vì hiếm gặp nên các BV tuyến dưới, khi gặp trường hợp này ít có kinh nghiệm xử lý.
Cũng theo PGS Nguyễn Thị Nhung, thuyên tắc ối mặc dù ít gặp nhưng lại có tỉ lệ tử vong rất cao, thường trên 90%. Biến cố xảy ra thường trong giai đoạn cuối của chuyển dạ, với cơn co tử cung mạnh và ối vỡ. Nước ối chảy vào tĩnh mạch, vào tim, phổi, lên não, gây suy hô hấp cấp.
Với bệnh này, bệnh nhân sẽ bị đột ngột tím tái, trụy tim mạch, rối loạn đông máu và tử vong. Gần như hầu hết các trường hợp bị thuyên tắc ối đều tử vong; chỉ có hy vọng nhỏ nếu phát hiện kịp thời và cấp tốc phẫu thuật lấy con ngay, nhưng hy vọng chỉ cứu được con.
Liên tiếp 6 vụ sản phụ tử trong hơn 2 tuần gầy đây trên cả nước cho thấy, tai nạn trong sản khoa tại VN hiện nay đang ở mức báo động. BS Trần Ngọc Hải, Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp, BV Phụ sản Từ Dũ TPHCM, cho rằng, trong y tế, ngành sản là tử vong nhiều nhất. Ngay tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, tỉ lệ sản phụ chết là 14/100.000 người. Ở VN đầu thập niên 1980, số phụ nữ qua đời trong lúc vượt cạn lên tới 250/100.000 ca. Còn hiện nay, con số tử vong ở VN vẫn còn ở mức cao: 75/100.000 ca. Vì thế, trong một ca sinh thường hay sinh mổ, không ai có thể nói trước sẽ chắc chắn thành công, vì có thể một số trường hợp xảy ra ngoài ý muốn mà BS không thể tiên lượng được…
Sinh mổ chưa chắc đã an toàn
Nếu so sánh số liệu tử vong trên thế giới và VN trong lĩnh vực sản khoa đã cho thấy, tỉ lệ tử vong tại VN vẫn còn quá cao. Giải thích vấn đề này, PGS. TS. BS Vũ Thị Nhung, cảnh báo, bên cạnh những trường hợp bất khả kháng, không thể dự phòng được như tắc mạch ối thì hầu hết những nguyên nhân dẫn đến tử vong mẹ, đều có thể phòng ngừa được. Nhiều thai phụ không chịu đi khám thai định kỳ để phát hiện bệnh sớm và bảo vệ tính mạng của người mẹ như: Chấm dứt thai kỳ sớm, điều trị tiền sản giật, đỡ đẻ vô trùng… Thực tế, nhiều người có những dấu hiệu bất thường nhưng vẫn nghĩ đó là bình thường, lúc đưa đến BV thì đã quá muộn. Thậm chí, nhiều trường hợp sau khi sinh, bị sốt lại nghĩ bị cảm cúm, nhưng thực ra lại là do nhiễm trùng sản dịch, nếu chậm đưa đến BV có thể đe dọa đến tính mạng.
Trước thực trạng nhiều sản phụ tử vong do sinh thường trong thời gian gần đây, khiến các BV đứng trước áp lực bệnh nhân yêu cầu phải sinh mổ cho bằng được. Tuy nhiên, theo PGS Vũ Thị Nhung, nhiều người lầm tưởng mổ lấy thai là an toàn tuyệt đối. Thực tế cho thấy, tỉ lệ tử vong mẹ và tử vong chu sinh (trẻ tử vong từ lúc sinh ra cho đến 28 ngày sau sinh) ở các ca mổ lấy thai cao hơn so với các ca sinh thường. Tỉ lệ tử vong mẹ cũng tăng gấp 4 lần nếu mổ lấy thai so với sinh thường; ngay cả mổ chủ động, tỉ lệ tử vong mẹ cũng tăng 2,84 lần so với sinh thường. Đối với trẻ, mổ lấy thai chủ động không qua chuyển dạ thì nguy cơ hội chứng suy hô hấp cấp cao gấp 2,6 lần, có chuyển dạ rồi mới mổ lấy thai nguy cơ này cao gấp 1,9 lần so với sinh thường; trong khi hội chứng suy hô hấp cấp và sinh non là nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ sơ sinh.
Ngoài ra, trẻ sinh mổ còn bị suy giảm khả năng miễn dịch hơn trẻ sinh thường. Nguyên nhân là khi sinh mổ, trẻ giảm tiếp xúc với vi khuẩn trong những ngày đầu tiên sau sinh vì điều kiện vệ sinh vô trùng chặt chẽ khi mổ, trẻ không có nhiều cơ hội tiếp xúc với vi khuẩn cơ thể mẹ và vi khuẩn chủ yếu từ môi trường bệnh viện (khi bé nằm trong BV).
Hiện tại VN, trong 7 nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ, băng huyết là nguyên nhân hàng đầu với 41%; sản giật, tiền sản giật là 21,3%, nhiễm khuẩn sản khoa là 16,6%, phá thai không an toàn là 11,5%.
Theo Võ Tuấn
Lao động